Tượng Hộ Pháp Thiện, Ác
Là hai pho được đặt đăng đối hai bên ngay cổng vào của hai bên toà Tiền đường gồm: tượng Hộ Pháp Khuyến Thiện bên phải chùa và tượng Hộ Pháp Trừng Ác bên trái chùa. Các pho tượng này thường được mô tả là những võ tướng to lớn, mình mặc áo giáp trụ, đầu đội mũ Kim Khôi.
Tượng ông Trừng Ác thường dữ tợn mặt đỏ gay, mắt trợn ngược, một tay chống lên mình con sư tử, một tay cầm chuỳ hoặc đao giơ lên như biểu lộ ngăn chặn cái ác chúng sinh bỏ lại ở ngoài cổng chùa khi bước vào không gian thanh tịnh. Tượng ông Khuyến Thiện cũng có dạng trang phục như ông Trừng Ác, nhưng khuôn mặt hiền lành, da trắng, một tay chống lên lưng con sư tử, một tay nâng viên ngọc quý tượng trưng cho tâm Phật của chúng sinh.
Đối với các tượng Khuyến Thiện, Trừng Ác này, trong việc thể hiện trang phục của các pho tượng cũng có khác biệt. Cũng vẫn là giáp trụ, trên đó có các mặt hổ phù trấn ở bả vai, ở đai lưng, phần hộ tâm, nhưng trên tượng ông Thiện những hình ảnh này cũng hiền lành, còn trên tượng ông Ác các nét chạm khắc thường nhấn mạnh đến nét dữ dằn. Một số tượng Hộ Pháp Thiện Ác có tạc thêm con báo đen hoặc con rồng phụ trợ cho ý nghĩa chế ngự được tâm ác thú và có được thiện tâm thiện tính khi bước qua cổng chùa.
Tượng Đức Ông
Là pho tượng mô tả một vị quan văn mặt đỏ, đội mũ cánh chuồn, ngồi theo thế hiền toạ hai chân song song. Các ban thờ Đức Ông và Thánh Tăng xuất hiện trong điện Phật của người Việt khá muộn khoảng sau thế kỷ 19. Hai bên Đức Ông có hai vị là Già Lam và Chân Tể. Đức Ông là ngài Cấp Cô Độc, là vị trưởng giả giàu có nhưng đầy từ tâm.
Ngài nghe Phật giảng đạo mà giác ngộ, đã bỏ tiền của mua vườn của thái tử Kỳ Đà dâng cho Phật. Ông được Thích Ca tán thán và cho cai quản tất cả mọi cảnh chùa trên thế gian. Vì thế bàn thờ của ngài thường đặt bên trái nơi các khách hành hương sẽ đến lễ trước khi vào lễ Phật.
Trong các ngôi chùa Việt, ban thờ Đức Ông còn gọi là ban Thập Bát Long Thần, trong sách cúng Phật Đại Khoa có lời thỉnh Thập Bát Long Thần Già Lam Chân Tể, chính là thỉnh Đức Chúa Ông. Trong đó Già Lam là một biệt danh. Tiếng Hán Già Lam có nghĩa là chủng viện Phật giáo, nên danh Già Lam là người trông coi chùa.
Hai pho tượng hai bên Đức Ông cũng được gọi là tượng Già Lam và Chân Tể. Hai vị này có nhiệm vụ ghi chép các việc diễn ra trong chùa nên tay các vị này cầm bút, cẩm sổ. Hai vị này thường được tạc theo lối vắt chân chữ ngũ, đội mũ cánh chuồn, trang phục kiểu quan văn. Cũng có khi hai pho tượng ở hai bên Đức Ông thể hiện một nhân vật quan văn, một nhân vật quan võ. Điển hình là ban thờ Đức Ông chùa Bút Tháp, thế kỷ 19.
Tượng Thánh Hiền
Là pho tượng đặt trong ban thờ đối xứng với ban thờ Đức Ông ở bên phải toà Tiền Đường.
Tượng Thánh Hiền là vị đội mũ Tỳ lư thất Phật, một tay trong tư thế thuyết pháp một tay trong lòng đùi hoặc cầm chén nước. Tượng mặc áo thụng nâu, hoặc vàng. Hai bên tượng Thánh Hiền có Diệm Nhiên đại sĩ và Tiêu Diện đại sĩ. Diệm Nhiên đại sĩ là tượng mặt đỏ mũ đầu mâu, đây là vị thống lĩnh 12 loại cô hồn. Còn tượng Tiêu Diện đại sĩ là tượng mặt xanh hoặc mặt đen, hai khoé miệng có hai đốm lửa.
Hai vị này được xem là hai quỷ vương giúp sức cho Anan trong việc chẩn tế, bố thí cho các cô hồn chúng sinh. Ở các ngôi chùa miền Nam, Tiêu Diện đại sĩ còn được thờ một ban riêng bởi chức năng trên. Thánh Hiền trong Phật giáo Việt chính là đức Anan, một trong những đại đệ tử của đức Phật và là người đấu tranh ủng hộ để phái nữ đi tu. Do đó ông cũng là người rất được sùng kính trong các ngôi chùa.
Ở một số chùa tượng Thánh Hiền chính là tượng mô tả Đường Huyền Trang, hai bên là hai đại đệ tử Tôn Ngộ Không và Sa Tăng. Bộ tượng này có ở chùa Kim Liên (Hồ Tây, Hà Nội) và chùa Bộc (đường Chùa Bộc, Hà Nội).
Tượng Bát Bộ Kim Cương
Là tám pho tượng hộ pháp xuất hiện rất sớm trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Trong các ngôi chùa thời Lý, các vị Kim Cương được đặt hai bên cổng của các toà tháp Phật quay mặt về bốn phương tám hướng. Hiện nay các tượng Kim Cương trong các ngôi chùa Việt thường đặt đăng đối hai bên tiền đường, mỗi bên bốn vị.
Xem thêm: Mẫu tượng Bát Bộ Kim Cương đẹp
Hình tướng các vị Kim Cương thường được tạc trong dáng vẻ to lớn, mình mặc áo giáp trụ, đầu đội mũ Kim Khôi, tay cầm một pháp khí tuỳ theo thần tích và chức năng của các vị Kim Cương này là gì mà pháp khí đó là gì. Các pho tượng Kim Cương thời Lý hiện nay vẫn còn lưu giữ ở chùa Long Đọi, mang một dáng vẻ khá đặc biệt. Họ tuy trong dáng vẻ võ tướng, nhưng chỉ mang chức năng hộ Pháp.
Còn các vị Kim Cương chùa Tây Phương, chùa Nành, chùa Dâu thuộc nghệ thuật thế kỷ 17-18, dường như lại mang một thần thái khác, khá dữ tợn. Bát bộ Kim Cương này có tên gọi như sau: Thanh Trì Tai, Tích Độc Thần, Hoàng Tuỳ Cầu, Bạch Tịnh Thuỷ, Xích Thanh Hoả, Đinh Trì Tai, Tử Hiền, Đại Lực Thần. Chúng tôi cho rằng các pho tượng Kim Cương có niên đại thế kỷ 17-18 chịu ảnh hưởng rất rõ nét của nghệ thuật tạo tượng Trung Quốc.
Theo quan niệm của nhóm các nhà nghiên cứu về lịch sử và lịch sử Phật giáo Việt Nam thì các vị Kim Cương này là những vị thần hộ pháp thuần Việt và có nguồn gốc Việt trong truyền thuyết về bà Hương Vân Cái Bồ tát.
Thập Điện Diêm Vương
Trong ngôi chùa “nội Công ngoại Quốc”, bộ tượng này thường có hai vị trí: một là đặt ngay hai đầu hồi của toà tiền đường, nếu chùa đó không có bộ tượng Kim Cương. Hai là được bày đăng đối hai bên ban Tam Bảo. Thập Điện Diêm Vương ở những ngôi chùa lớn không chỉ là tạc tượng mà còn được đắp thành động phủ với nhiều những cảnh có tính chất giáo hoá chúng sinh như nấu vạc dầu, cưa người, giã chày, tra khảo rất man rợ. Điển hình như động Thập Diện Diêm Vương ở chùa Nôm, chùa Chuông, chùa Láng, chùa Long Đọi.
Ở một số chùa bộ Thập Điện Diêm Vương này chỉ được khắc tạc trên các bức phù điêu. Điển hình như chùa Trăm Gian, chùa Huyền Kỳ, chùa Keo. Với bộ Thập Điện Diêm Vương được tạo hình dưới hình thức là các tượng tròn thường 10 vị này có hình thái tương tự nhau.
Các vị đều mặc áo long cổn, ngồi trên ngai chạm rồng ở hai tay ngai. Đầu các vị đội mũ bình thiên với bốn tua bốn góc. Hai tay chắp lại cung kính cầm thẻ bài, phía dưới có khăn phủ tay. Áo có thể có hoặc không có bổ tử trước ngực, lưng có cân đai và chân đi hia rất đạo mạo.
Các vị này cai quản 10 tầng địa ngục gồm: Tần Quảng Vương, Sở Giang Vương, Diêm La Vương, Thái Sơn Vương, Biến Thành Vương, Bình Đẳng Vương. Các vị này theo quan niệm dân gian là những người sẽ xét công luận tội của chúng sinh để phụng sự theo luật nhân quả, luân hồi. Qua từng cửa ngục, kể cả các phù điêu hay các tranh vẽ khắc hoạ những cảnh tượng rùng rợn đầu rơi máu chảy là cách giáo dục con người ta hướng thiện.
Các vị này cùng với các vị Hộ Pháp Thiện Ác là những hình ảnh biểu tượng cho việc giáo dục hướng thiện trong Phật giáo Việt. Hình tượng Thập Điện Diêm Vương xuất hiện trong các ngôi chùa Việt có thể sự ảnh hưởng đậm nét từ Đạo giáo và văn hoá Trung Hoa. Niên đại của các bộ tượng Thập Điện Diêm Vương cũng khá muộn, sớm nhất là các bộ tượng thế kỷ 18.